Hối hận hay sự truy hối của tâm là tính chất của tâm sở ố tác. Ố tác tức là đối với những việc đã làm, khi nhìn lại, nhớ lại, cảm thấy đáng ghét, đáng khinh, khả ố. Những việc đã làm có thiện và bất thiện. Có những việc xấu, việc ác mình trót đã làm, khi nhìn lại, nhớ lại mình sinh tâm hối hận, ăn năn, tâm sở này là thiện; nhưng cũng với việc xấu, việc ác ấy mà mình không làm, khi nhìn lại, nhớ lại mình thấy đã tuột mất cơ hội, mình thấy tiếc, tâm sở này là bất thiện.
Trong trường hợp đối với những việc thiện lành, như báo hiếu cha mẹ, quy y Tam bảo, bố thí cúng dường… mình không chịu làm, sau đó khởi tâm truy hối, mình nhớ lại, thấy hối tiếc vì đã đánh mất cơ hội làm việc thiện lành, tâm sở này là thiện; nhưng cũng với việc thiện lành ấy mình đã làm, sau đó sinh tâm hối hận, mình nhớ lại thấy không ưa, tâm sở này là bất thiện.
Như vậy, cùng một tâm sở hối hay ố tác, nhưng có khi thiện, có khi bất thiện, nên gọi là tâm sở bất định. Với việc thiện mà mình chưa làm hay chưa kịp làm và với việc xấu ác đã làm rồi sinh tâm truy hối, thấy tiếc, thấy hối hận thì tâm sở này là thiện, rất đáng quý, cần nuôi dưỡng và phát triển.
Tuy nhiên, trong cuộc sống có đôi khi người ta không hối hận với việc xấu ác đã làm, hay cảm thấy tiếc nuối hoặc ray rứt khi không làm, chưa làm một việc tốt đẹp nào đó, mà nhiều người lại cảm thấy không ưa thích, cảm thấy hối tiếc với những việc thiện đã làm.
Trưởng giả Sa-đề trong câu chuyện được kể trong kinh Tăng nhất A-hàm sau đây là một ví dụ. Trưởng giả Sa-đề, một người giàu có, của cải vô lượng, lại không con cái, tham lam keo kiệt, không dám ăn, không dám mặc, chẳng dám tiêu xài. Sống trên đống tài sản kếch xù nhưng chỉ ăn cơm hẩm, mặc áo vá, lại chẳng bao giờ chia sẻ, giúp đỡ hay chu cấp cho cha mẹ, người thân…
Sau khi trưởng giả Sa-đề qua đời, vì không con cái, gia sản bị nhà vua trưng dụng, sung vào công quỹ. Tại sao trưởng giả Sa-đề giàu có mà lại sống nghèo hèn như vậy? Vua Ba-tư-nặc, người dân trong nước, cũng như các thầy Tỳ-kheo đều thắc mắc, và không biết sau khi qua đời Sa-đề sẽ tái sinh vào đâu, nên cùng nhau đến hỏi Đức Phật.
Đức Phật cho biết, vào thời quá khứ xa xưa, thời Phật Ca-diếp, trưởng giả Sa-đề ở trong thành Xá-vệ là con một nhà nông. Sau khi Phật Ca-diếp nhập diệt, có vị Bích-chi Phật (Độc giác) xuất hiện ở đời, đến nhà của anh nông dân này khất thực. Khi anh nông dân thấy vị Bích-chi Phật đứng ở trước cửa, liền nghĩ thầm: “Như Tôn giả này xuất hiện ở đời rất khó. Nay ta hãy đem đồ ăn thức uống đến bố thí cho người này”.
Bấy giờ, anh nông dân bố thí cho vị Bích-chi Phật kia. Sau khi ăn xong, Bích-chi Phật nói: “Con đã bố thí cho ta, nên con sẽ được tái sinh vào một gia đình giàu có, có nhiều con cái, và sẽ được thừa hưởng tài sản kếch xù của trưởng giả Sa-đề”. Đó là lý do vì sao trưởng giả Sa-đề sau này lại sống nghèo hèn và không có con cái.
Từ câu chuyện này, chúng ta thấy rằng việc bố thí không chỉ đơn thuần là cúng dường cho người đã qua đời, mà còn liên quan đến tương lai của chúng ta. Hãy suy ngẫm về ý nghĩa của việc bố thí và không để sinh tâm hối tiếc về những việc thiện đã làm hoặc không làm trong cuộc sống của mình.